ĐỀ CƯƠNG CHUYÊN ĐỀ 2 – CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

08/03/2022

CHUYÊN ĐỀ 2

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

————-

Giảng viên: TS Phạm Bá Khoa – Giảng viên cao cấp

 

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Khái niệm chủ nghĩa duy vật lịch sử

Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử lý giải sự tiến hóa của xã hội loài người bằng sự phát triển của trình độ sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ sản xuất cũng thay đổi dẫn đến những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó cùng với những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay đổi kéo theo sự thay đổi hệ thống pháp lý và chính trị.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx trở thành phương pháp luận của nhiều nhà nghiên cứu trong các bộ môn như sử học, xã hội học…

1.2. Đối tượng nghiên cứu

Chủ nghĩa duy vật lịch sử không nghiên cứu những mặt riêng biệt của sinh hoạt xã hội, mà nghiên cứu toàn bộ xã hội như một thể thống nhất với tất cả các mặt, các quan hệ xã hội, các quá trình có liên hệ nội tại và tác động lẫn nhau của xã hội; nghiên cứu những quy luật chung nhất phổ biến nhất của sự phát triển xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu xã hội với tư cách là một chỉnh thể thống nhất để vạch ra những nét chung của sự phát triển xã hội, những động lực, những nguyên nhân cơ bản của sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế – xã hội này sang một hình thái kinh tế – xã hội khác, mối liên hệ qua lại và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những hiện tượng khác nhau của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, tư tưởng v.v…

Chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch ra những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển xã hội, chỉ ra vị trí và vai trò của mỗi mặt của đời sống xã hội, trong hệ thống xã hội nói chung, vạch ra những nét cơ bản của các giai đoạn phát triển của xã hội loài người.

1.3. Nội dung cơ bản

– Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.

– Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử là học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, theo đó, trong các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất là cơ sở hiện thực của mỗi xã hội nhất định, cấu trúc hạ tầng, trên đó xây dựng lên kiến trúc thượng tầng: chính trị, pháp luật và các hình thái ý thức xã hội khác, với những thiết chế của chúng. Mỗi hệ thống quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định, phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất.

– Các lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển không ngừng, đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời và đòi hỏi phải thay đổi các quan hệ sản xuất ấy bằng những quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi ấy được thực hiện bằng cách mạng xã hội.

– Một khi cơ sở hạ tầng đã thay đổi, thì toàn bộ cấu trúc thượng tầng sớm muộn cũng thay đổi theo. Hình thái kinh tế – xã hội cũ được thay thế bằng một hình thái kinh tế – xã hội mới tiến bộ hơn. Như vậy, lịch sử loài người là lịch sử thay thế của những hình thái kinh tế – xã hội khác nhau.

– Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm phát hiện ra những quy luật chung nhất của sự vận động phát triển của lịch sử, là nguyên nhân dẫn đến sự thay thế các hình thái kinh tế – xã hội thấp đến trình độ cao hơn, vận động theo hình xoáy ốc và đỉnh cao của nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh.

  1. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

          2.1. Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất

          2.1.1. Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất

          2.1.1.1. Sản xuất vật chất – nền tảng của xã hội

          Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người. Đó là hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người. Khẳng định điều đó, Ph.Awngghen viết: “Điểm khách biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất[1].

Sự sản xuất xã hội bao gồm: Sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất bản than con người. Trong sản xuất xã hội, sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng. Sản xuất vật chất là quá trình lao động của con người.

2.1.1.2. Vai trò của sản xuất vật chất

Thể hiện ở những điểm sau:

– Lao động sản xuất vật chất là một trong những nguồn gốc dẫn đến sự xuất hiện của loài người.

– Hoạt động sản xuất vật chất là nguồn gốc của mọi cái thỏa mãn nhu cầu phong phú của con người, tạo ra tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của từng cá thể con người nói riêng, của con người nói chung.

– Con người thông qua việc sản xuất ra của cải vật chất đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả tính phong phú và phức tạp của nó. Nói cách khác, trong quá trình sản xuất vật chất, con người đã tạo ra và biến đổi các quan hệ xã hội cũng như bản thân con người.

– Xã hội tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật chất. Do vậy, lịch sử của xã hội trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.

2.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

2.2.1.          Một số khái niệm cơ bản

2.2.1.1. Khái niệm phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở mỗi một giai đoạn lịch sử, một hình thái kinh tế – xã hội nhất định có một phương thức sản xuất riêng.

Phương thức sản xuất bao gồm hai mặt quan hệ mật thiết với nhau là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

2.2.1.2. Khái niệm lực lượng sản xuất

Trong qúa trình thực hiện sản xuất vật chất, con người tác động vào giới tự nhiên, chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất.

Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.

Lực lượng sản xuất là sức sản xuất của xã hội, lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động và tư liệu sản xuất: VD: công nhân, máy móc…

+ Người lao động gồm sức khoẻ, kỹ năng và tri thức. VD: công nhân, nông dân

+ Tư liệu sản xuất gồm công cụ lao động và đối tượng lao động. VD : đất đai, cày cuốc

– Công cụ lao động : Công cụ sản xuất và phương tiện vật chất khác. VD: máy móc, cày bừa…

– Đối tượng lao động: có 2 loại một loại có sẵn trong tự nhiên, một loại do lao động con người tạo ra. VD : kim loại, than đá…

Trong lực lượng sản xuất, chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá cao vai trò của người lao động và công cụ lao động. Người lao động là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”[2].

Công cụ lao động là khí quan vật chất “nối dài”, “nhân lên” sức mạng của con người trong quá trình biến đổi giới tự nhiên. Nó là yếu tố quyết định trong tư liệu sản xuất. trình độ phát triển của công cụ lao động vừa là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa thời đại kinh tế – kỹ thuật trong lịch sử. C.Mác viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ, chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”[3].

 

2.2.1.3. Khái niệm quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất.

Quan hệ sản xuất được cấu thành từ: Các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất (giữ vai trò quyết định); quan hệ tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau; quan hệ phân phối sản phẩm lao động.

2.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất phải biến đổi theo phù hợp với nó.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sự phù hợp biện chứng, sự phù hợp bao hàm mâu thuẫn. Đây là sự phù hợp giữa một yếu tố động (lực lượng sản xuất luôn biến đổi) với một yếu tố mang tính ổn định tương đối (quan hệ sản xuất ổn định hơn, ít biến đổi hơn).

 Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất quy định: Mục đích xã hội của sản xuất, hình thức tổ chức, quản lý sản xuất, quy định khuynh hướng phát triển các nhu cầu lợi ích vật chất và tinh thần từ đó hình thành hệ thống những yếu tố tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lục lượng sản xuất nó sẽ tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất trở thành một trong những động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, thì sẽ là sự trì trệ, níu kéo và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

  1. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG

3.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

3.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Kết cấu của cơ sở hạ tầng của một xã hội thong thường được cấu thành bởi quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ, quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội ấy và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất đó, trong đó quan hệ sản xuất thống trị là quan hệ sản xuất chi phối các quan hệ sản xuất khác.

3.1.2. Khái niệm kiến trúc thượng tầng

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật với những thể chế tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo gội, các đoàn thể…) được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

Trong xã hội có giai cấp, nhà nước – cơ quan quyền lực của một giai cấp có vai trò đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho chế độ chính trị hiện tồn.

 

3.2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng trong một hình thái kinh tế – xã hội.

3.2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định: Quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ vật chất quyết định các quan hệ chính trị, tinh thần và các quan hệ xã hội khác.

Trong sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng.

Mâu thẫn trong đời sống kinh tế quy định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần.

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ: Sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng.

3.2.2. Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối, có quy luật vận động riêng của nó trong sự phát triển. Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bộ phận của kiến trúc thượng tầng cũng có ảnh hưởng đến sự tồn tại, vận động và phát triển của kiến trúc thượng tầng.

Kiến trúc thượng tầng còn có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng tác động đến cơ sở hạ tầng ở những mức độ khác nhau, bằng nhiều hình thức khác nhau theo những cơ chế khác nhau. Trong đó nhà nước (là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhưng là một lực lượng vật chất có sức mạnh kinh tế) giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nói về điều này, Ph.Ăngghen viết: “Bạo lực (tức là quyền lực nhà nước) – cũng là một sức mạnh kinh tế”[4].

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng theo hai hướng:

  1. Sự tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế, cơ sở hạ tầng phát triển.
  2. Ngược lại, sự tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng.
  3. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI

          4.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội

          4.1.1. Khái niệm và kết cấu của tồn tại xã hội

          4.1.1.1. Khái niệm tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất, điều kiện sinh hoạt vật chất và quan hệ vật chất của mỗi cộng đồng người trong những điều

kiện lịch sử xác định.

4.1.1.2. Kết cấu của tồn tại xã hội

Các yếu tố cơ bản của đời sống vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm:

– Phương thức sản xuất ra của cải vật chất (yếu tố cơ bản nhất); điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý; dân số và mật độ dân số.

– Trong các quan hệ vật chất của xã hội thì quan hệ giữa người với tự nhiên và quan hệ vật chất giữa người với nhau là cơ bản.

– Ngoài những yếu tố cơ bản trên, những yếu tố khác như: Quan hệ quốc tế, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình… cũng đóng vai trò quan trọng trong tồn tại xã hội.

Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

4.1.2. Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội

4.1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội

Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng tình cảm, tâm trạng… của những cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội của họ và phản ánh tồn tại xã hội đó trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.

4.1.2.2. Kết cấu của ý thức xã hội.

Có thể phân tích từ những góc độ khác nhau:

Một là, theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác nhau, đó là ý thức chính trị, ý thức pháp quvền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học,…

Hai là, theo trình độ phản ánh, người ta chia ý thức  xã hội thành ý thức thông thường và ý thức lý luận.

Ba là, ngoài những cách phân chia trên, người ta còn phân chia ý thức xã hội theo hai cấp độ: Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

4.1.3. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Sự quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, tồn tại xã hội là nguồn gốc khách quan, cơ sở khách quan của sự hình thành, ra đời của ý thức xã hội (nghệ thuật, tư tưởng, chính trị, pháp quyền).

Thứ hai, tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm của ý thức xã hội nói chung, của các hình thái ý thức xã hội nói riêng.

Thứ ba, tồn tại xã hội thay đổi sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của ý thức xã hội. Tất nhiên, mức độ, nhịp độ thay đổi của các bộ phận trong ý thức xã hội diễn ra khác nhau. Có những bộ phận biến đổi nhanh hơn (ví dụ như chính trị, pháp luật), có bộ phận thay đổi chậm hơn (ví dụ như nghệ thuật, tôn giáo).

Thứ tư, trong xã hội có giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp.

Công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. 

Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất.

Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. C.Mác viết: “… không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”[5].

4.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Trong quá trình phát triển của mình, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở các khía cạnh sau:

4.2.1. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.

Có điều này là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ở đây, ý thức xã hội là cái phản ánh, tồn tại xã hội là cái được phản ánh. Cái được phản ánh là cái có trước và biến đổi nhanh, còn cái phản ánh là cái có sau và thường biến đổi chậm hơn cái được phản ánh. Mặt khác, một số bộ phận của ý thức xã hội, đặc biệt trong các hiện tượng tâm lý xã hội, đã ăn sâu vào tiềm thức con người, nên nó có tính bảo thủ, có sức ỳ rất lớn. Trong xã hội thường có lực lượng bảo thủ muốn duy trì những ý thức xã hội lạc hậu theo hướng bảo vệ lợi ích của mình.

Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích của những nhóm xã hội, tập đoàn xã hội, giai cấp xã hội khác nhau. Do đó, những quan điểm, tâm lý cũ… thường được lực lượng bảo thủ lưu giữ, truyền bá nhằm chống lại quan điểm, tư tưởng tiến bộ.

Khắc phục những biểu hiện lạc hậu của ý thức xã hội bằng con đường phát triển kinh tế – xã hội, phát triển khoa học – kỹ thuật và tuyên truyền giáo dục ý thức tiến bộ, cũng như phải đấu tranh chống lại những lực lượng bảo thủ, phản tiến bộ.

4.2.2. Ý thức xã hội có thể “vượt trước” tồn tại xã hội.

Ý thức xã hội thể hiện trong lý luận khoa học là sự khái quát dự báo khoa học sự vận động và phát triển xã hội. Với tính cách là lý luận khoa học, ý thức xã hội có vai trò dẫn đường, định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người, nó tác động tích cực đối với tồn tại xã hội.

Do dựa trên cơ sở khoa học, những quan điểm tiến bộ có thể dự báo được khuynh hướng vận động, phát triển của xã hội. Do vậy, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội là vậy. Tuy nhiên, ngay cả khi vượt trước, ý thức xã hội cũng vẫn bị chi phối bởi tồn tại xã hội. Tính “vượt trước” ở đây là tính vượt trước của sự phản ánh chứ không phải vượt trước của bản thân ý thức xã hội.

4.2.3. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.

Ý thức xã hội một mặt phản ánh tồn tại xã hội, trong sự phát triển của nó với tính cách là một chỉnh thể, nó không nảy sinh đơn thuần chỉ từ tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội ấy mà luôn có sự kế thừa trong dòng chảy phát triển của mình. Trong lịch sử nhân loại, có những quốc gia kinh tế không phát triển so với các nước láng giềng nhưng tư tưởng triết học lại phát triển rực rỡ hơn các nước có kinh tế phát triển. Ví dụ, nước Pháp thế kỷ XVIII, kinh tế không phát triển bằng nước Anh, nhưng triết học phát triển hơn nước Anh. Nước Đức nửa đầu thế kỷ XIX kinh tế không phát triển bằng nước Anh, Pháp nhưng triết học Đức phát triển hơn triết học Anh, Pháp.

Tính chất, nội dung kế thừa phụ thuộc vào địa vị và lợi ích giai cấp. Các giai cấp khác nhau thì kế thừa những yếu tố khác nhau của ý thức xã hội.

Vì vậy, chúng ta phải biết kế thừa những gia trị của nhân loại, của cha ông trước đây trong quá trình xây dựng đời sống văn hoá mới, tinh thần mới.

4.2.4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng

Các hình thái ý thức xã hội tác động qua lại, ảnh hưởng chi phối lẫn nhau. Ví dụ, ý thức chính trị và ý thức pháp luật tác động qua lại, trực tiếp lẫn nhau. Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật tác động, bổ sung cho nhau.

Ở mỗi thời đại nhất định, có một số hình thái ý thức nổi lên, có vai trò chi phối ảnh hưởng đến các hình thái ý thức khác. Ví dụ, triết học thời cổ đại, thần học thời trung cổ, chính trị trong thời cận hiện đại.

Ở Việt Nam hiện nay, nếu xa rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, nghệ thuật, pháp quyền, triết học… sẽ không tránh khỏi sai lầm trong quá trình phát triển của mình.

4.2.5. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội

Ý thức xã hội ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội, nhưng sau khi ra đời trong hình thức hoàn chỉnh của nó, ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.

Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là nhiều chiều, đan xen, phức tạp, nhưng nhìn chung theo hai hướng tích cực và tiêu cực.

Hướng tích cực tức là thúc đẩy tồn tại phát triển, hướng tiêu cực là kìm hãm tồn tại xã hội phát triển.

Mức độ tác động và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội tùy thuộc vào các yếu tố sau:

– Tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản động của chủ thể mang ý thức xã hội (địa vị lịch sử của giai cấp – chủ thể của ý thức xã hội).

– Tính khoa học (hay không) của ý thức xã hội.

– Mức độ thâm nhập vào đời sống xã hội, vào quần chúng nhân dân của ý thức xã hội

         

  1. HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI

          5.1. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế xã hội

          5.1.1. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội

Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm hình thái kinh tế – xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

5.1.2. Các yếu tố hợp thành một hình thái kinh tế – xã hội

Một hình thái kinh tế – xã hội có 3 yếu tố cơ bản cấu thành:

Một là, các lực lượng sản xuất của xã hội ở một trình độ phát triển nhất định, đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất

Hai là, hệ thống quan hệ sản xuất được hình thành trên cơ sở thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng và các quan hệ xã hội khác.

Ba là, hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng kinh tế, đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hoá…. của các quan hệ sản xuất của xã hội.

Ngoài những yếu tố cơ bản trên, mỗi hình thái kinh tế – xã hội còn có các yếu tố khác như: Quan hệ dân tộc, quan hệ giai cấp, quan hệ gia đình…

5.2. Quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội

Xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với một giai đoạn của sự phát triển  là một hình thái kinh tế – xã hội. Đứng trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”[6].

Luận điểm đó được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau dây:

Một là, sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại, vận động và phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội.

Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế – xã hội. Nói cách khác, con người không  được tự do lựa chọn hình thái kinh tế – xã hội của mình. Mối quốc gia đều phải dựa trên cơ sở nền tảng sản xuất vật chất  trong nước và thế giới mà xây dựng chọn hình thái kinh tế – xã hội cho phù hợp.

Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó.

Ba là, sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan.

Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội: Nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Nhân tố chủ quan đóng vai trò gì đối với tiến trình phát triển của lịch sử?

Trong khi khẳng định tính chất lịch sử – tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong lịch sử, V.V..

Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất phong phú, đa dạng trong tiến trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua” một hay một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như vậy đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.

Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người, nó đóng vai trò là các nhân tố thuộc cơ chế vận động, phát triển của lịch sử nhân loại. Từ đó lịch sử phát triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất của nó.

5.3. Ý nghĩa phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế – xã hội

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân là lý luận hình thái kinh tế – xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.

Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất xã hội với cốt lõi là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.

Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các phương tiện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau.

Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội.

Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế – xã hội là những giá trị về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại, lịch sử các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội. V.I. Lênin từng dạy rằng: lý luận đó “không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử”.

  1. VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG ĐỐI VỚI SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI KHÁNG GIAI CẤP

6.1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

          6.1.1. Khái niệm giai cấp

Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” Lênin đã định nghĩa về giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.

Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”[7].

Từ định nghĩa của Lênin, chúng ta có thể rút ra những đặc trưng cơ bản về giai cấp sau đây:

Thứ nhất, giai cấp là những tập đoàn người to lớn có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định.

Điều này có nghĩa là sự phân chia giai cấp gắn liền với hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Hệ thống sản xuất xã hội quy định địa vị của các giai cấp, có giai cấp giữ địa vị thống trị, có giai cấp giữ địa vị bị thống trị.

Thứ hai, các giai cấp có quan hệ khác nhau về quyền sỡ hữu đối với tư liệu sản xuất.

Đặc trưng này nói lên rằng trong xã hội, nếu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội chỉ thuộc quyền sở hữu của một giai cấp nào đó, còn các giai cấp khác không có quyền sở hữu đó thì quan hệ giữa các giai cấp là hoàn toàn bất bình đẳng. Đây là đặc trưng không chỉ vạch ra nguồn gốc ra đời của giai cấp mà còn là đặc trưng chi phối các đặc trưng khác.

Thứ ba, các giai cấp có vai trò khác nhau trong việc tổ chức lao động xã hội.

Đặc trưng này cũng do đặc trưng thứ hai nói trên quy định. Nghĩa là trong xã hội, giai cấp nào chiếm đoạt những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp ấy sẽ giữ lấy quyền tổ chức, quản lý nền sản xuất xã hội, còn những giai cấp không có tư liệu sản xuất thì chỉ là những giai cấp làm thuê bán sức lao động mà thôi.

Thứ tư, các giai cấp có những phương thức và qui mô thu nhập khác nhau về của cải của xã hội.

Đặc trưng này cũng do đặc trưng thứ hai quy định. Nghĩa là trong xã hội, giai cấp nào chiếm đoạt những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp ấy không những giữ địa vị thống trị hệ thống sản xuất xã hội, giữ lấy quyền tổ chức, quản lý sản xuất, mà còn giữ quyền phân phối sản phẩm.

Bốn đặc trưng cơ bản nêu trên có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó đặc trưng thứ hai là cơ bản nhất. Thiếu một trong bốn đặc trưng, nhất là đặc trưng hai thì không thể giải thích đúng về giai cấp.

6.1.2. Nguồn gốc giai cấp

6.1.2.1. Nguồn gốc trực tiếp

Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội là do sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (chế độ tư hữu), đặc biệt là những tư liệu sản xuất chủ yếu.

6.1.2.2. Nguồn gốc sâu xa

Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành giai cấp là do sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một mức độ làm cho năng xuất lao động tăng lên, làm xuất hiện của cải dư thừa trong xã hội, khi đó những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt tài sản chung làm của riêng, từng bước hình thành nên chế độ tư hữu, tạo ra cơ sở phân hóa xã hội thành các giai cấp.

          6.1.3. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động và phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp.

6.1.3.1. Định nghĩa đấu tranh giai cấp

Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống lại một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”[8].

Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau.

6.1.3.2. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động và phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp.

– Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực của sự phát triển và tiến bộ của xã hội có giai cấp.

Theo V.I.Lênin, thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những người lao động làm thuê, những người nô lệ, bị áp bức về chính trị – xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau.

Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị… Vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Đó cũng là vấn đề cơ bản của mọi cách mạng xã hội với tư cách là đỉnh cao của sự phát triển đấu tranh giai cấp.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa giai cấp đến nay, về thực chất chỉ là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp. Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội.

Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và chính trị – xã hội. Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển xã hội.

– Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam

Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là tất yếu. Thực chất đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và các thế lực thù địch cới độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa; khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng, dân chủ, an sinh xã hội; đấu trranh chống các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ, độc lập chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

6.2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

6.2.1. Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của cách mạng xã hội

6.2.1.1. Khái niệm cách mạng xã hội

Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là cả một thời kỳ lịch sử bắt đầu bằng cuộc cách mạng giành chính quyền và kết thúc khi chế độ mới, hình thái kinh tế – xã hội mới đã hoàn toàn chiến thắng chế độ cũ, hình thái kinh tế – xã hội cũ.

Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng.

Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, việc giành chính quyền vẫn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.

6.2.1.2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội

Nguyên nhân khách quan, sâu xa của cách mạng xã hội xuất phát từ mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời mà không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết được. Mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt chính trị – xã hội thành cuộc đấu tranh giai cấp và chính sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp này đã tất yếu dẫn đến sự bùng nổ cách mạng,

Nguyên nhân chủ quan của nó, đó là sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng, tức giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Từ đó tạo ra sự phát triển của phong trào đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác và khi có sự kết hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được thời cơ cách mạng, thì khi đó tất yếu cách mạng sẽ bùng nổ và có khả năng thành công.

6.2.2. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

Cách mạng xã hội giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của sự phát triển xã hội. Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không thể diễn ra quá trình thay thể hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn. Với ý nghĩa đó mà C.Mác nhận định rằng: Các cuộc cách mạng xã hội là những “đầu tầu của lịch sử”, là phương thức thực hiện sự phát triển, của các hình thái kinh tế – xã hội.

Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Trong những thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức mạnh phi thường: “một ngày bằng hai mươi năm”.

  1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI

VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN

7.1. Con người và bản chất của con người theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử

7.1.1. Khái niệm con người

Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người.

–  Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:

Thứ nhất, con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên.

Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể vô cơ của con người”.

– Bản tính xã hội của con người được phân tích lừ các gíac độ sau đây:

Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động.

Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.

Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội.

Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.

Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.

7.1.2. Bản chất của con người

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phâm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của mình “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội[9].

Như vậy, có thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, chính là “tổng hòa những quan hệ xã hội”, bởi vì xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,…

Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích vả lý giái sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử.

Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con nguời lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó.

C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa muốn rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục, rằng, do đó, con người đã biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi, đã quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”[10].

Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”[11].

Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.

Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.

7.2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

          7.2.1. Khái niệm quần chúng nhân dân và lực lượng tạo thành

7.2.1.1. Khái niệm quần chúng nhân dân

Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải theo phương thức hành vi đơn lẻ, rời rạc, cô độc của mỗi con ngưới mà theo phương thức liên kết những con người thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội – cộng đồng đó chính là quần chúng nhân dân.

7.2.1. Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân

Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân bao gồm:

Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần – đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân.

Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân.

Thứ ba, những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại, luôn thay đổi cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên, lực lượng cơ bản nhất của mỗi cộng đồng nhân dân chính là những con người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho sự sinh tồn và phát triển của xã hôi. Ngoài ra, tùy theo mỗi điều kiện lịch sử xác định mà cộng đồng quần chúng nhân dân còn có thể bao gồm những lực lượng giai cấp và tầng lớp xã hội khác.

7.2.2. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử

Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều không nhận thức đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quân chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội.

Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội.

Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây:

Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cài vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội – đây là nhu cẩu quan trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.

Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội.

Mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của quần chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực một khi được vật chất hóa bởi hoạt dộng thực tiễn của nhân dân.

Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử.

Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng không có một cuộc cách mạng hay cuộc cải cách xã hội nào có thể thành công nếu nó không xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Với ý nghĩa như vậy, có thề nói: Cách mạng là “ngày hội của quần chúng””và trong ngày hội đó, quần chúng nhân dân có thể sáng tạo ra lịch sử “một ngày bằng hai mươi năm”.

Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lênin: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”[12].

Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.

Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo lịch sử mỗi cá nhân tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ có thể tham gia vào quá trình sáng tạo lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo ý nghĩa ấy, mỗi cá nhân của cộng đồng nhân dân đều “in dấu ấn” của nó vào quá trình sáng tạo lịch sử, mặc dù mức độ và phạm vi có thể khác nhau. Thế nhưng để lại những dấu ấn sâu sắc nhất trong tiến trình lịch sử thường là những thủ lĩnh mà đặc biệt là những thủ lĩnh ở tầm vĩ nhân. Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học. nghệ thuật…

Trong chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm lãnh tụ thường được dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Để trở thành lãnh tụ của quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có phẩm chất cơ bản sau đây:

Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử.

Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của lịch sử.

Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân.

Bất cứ một thời kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt ra nhũng nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng nhiệm vụ đó.

Như vậy, tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ qua vai trò của cá nhân, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của cả nhân, thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ nhân mà xem thường vai trò của quần chúng nhân dân đều là không biện chứng trong nghiên cứu về lịch sử và do đó không thể lý giải chính xác tiến trình vận động, phát triển của lịch sử nhân loại nói chung cũng như mỗi cộng đồng xã hội nói riêng.

[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 34, tr. 241.

[2] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tập 38, tr. 430.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, tr. 269.

[4] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tập 37, tr. 683.

[5] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tập 3, tr.15.

[6] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, tr. 21.

[7] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Matxcơva, 1979, tập 39, tr. 17 – 18.

[8] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Matxcơva, 1979, tập 7, tr. 237, 238.

[9] C. Mác và Ph. Ăng ghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tập 1, tr. 257.

[10] C.Mác và Ph.Ăng ghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tập 1, tr. 255.

[11] C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 476.

[12] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tập 4, tr. 473.